Đặt cọc không phải là một thuật ngữ mới được sử dụng trong Bộ luật Dân sự mà nó đã xuất hiện từ xa xưa, ngay từ những ngày đầu hình thành giao lưu dân sự. Khi bắt đầu hình thành các giao lưu dân sự, để nhận được sự tin tưởng từ nhau, người dân thường xâu tiền lại thành một cọc, hai cọc và đưa cho đối phương để làm tin.
Hiểu đơn giản đặt cọc là việc một bên đưa trước cho bên kia một khoản tiền để đảm bảo lòng tin cho việc thiết lập giao dịch dân sự. Thuật ngữ đặt cọc được truyền từ đời này sang đời khác đã trở thành tiền đề của chế định đặt cọc trong các quan hệ dân sự sau này. Mặc dù thuật ngữ đặt cọc đã xuất hiện từ rất lâu nhưng mãi đến khoảng năm 1991 nó mới chính thức được pháp luật dân sự ghi nhận là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. [1]
Dưới góc độ pháp lý hiện nay, tại Điều 358 BLDS 2005, Điều 328 BLDS 2015 quy định: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.
Như vậy có thể hiểu đặt cọc là sự thỏa thuận về việc một bên (bên đặt cọc) giao cho bên kia (bên nhận đặt cọc) một tài sản có giá trị để tạo lòng tin trong quan hệ thuê, mua. Điều đó xác nhận các bên đã thống nhất sẽ giao kết hợp đồng và thực hiện đúng nội dung đã cam kết. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đầy đủ thì bên có quyền có thể bằng chính hành vi của mình tác động trực tiếp lên tài sản bảo đảm của bên kia để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
[1] Dương Thị Hiện, “Đặt cọc – Một số lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015.