– Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 150 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”. Như vậy, “thời hiệu khởi kiện” là quy định mà pháp luật đặt ra để giới hạn quyền khởi kiện.
– Theo quy định tại Khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu áp dụng thời hiệu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
– Đây là quy định mới so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, quy định về thời hiệu khởi kiện tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 phù hợp với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Như vậy, khi hết thời hiệu khởi kiện, chủ thể vẫn có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án sẽ không được viện dẫn lý do đã hết thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tòa án chỉ được áp dụng quy định về thời hiệu khi đáp ứng đủ ba điều kiện:
(1) Đã hết thời hiệu khởi kiện;
(2) Có yêu cầu của một bên hoặc các bên;
(3) Yêu cầu phải được đưa ra tước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Vậy nên, đối với vụ việc hết thời hiệu khởi kiện nhưng người được lợi từ việc áp dụng thời hiệu từ chối áp dụng thời hiệu khởi kiện, không ai có yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thì Tòa án giải quyết theo thủ tục chung.